Đời sống
Tài xế gây tai nạn kinh hoàng ở Long An chịu hình phạt nào?
Những khía cạnh pháp lý trong vụ tai nạn giao thông kinh hoàng ở Long An, đã được các luật sư phân tích nhanh trong bài viết dưới đây.

15h ngày 2/1, tài xế Phạm Thành Hiếu lái xe đầu kéo mang biển số Long An 62C-043.48,  lưu thông theo hướng từ Long An về TPHCM thì xe lao tới lùa 21 xe máy đang dừng đèn đỏ ở ngã tư Bình Nhật (huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Hậu quả là 3 người thiệt mạng ngay tại chỗ, 1 người tử vong tại bệnh viện, 18 người khác bị thương được đưa đi cấp cứu.

Tài xế Phạm Thành Hiếu (SN 1987, quê huyện Bến Lức, Long An) đã rời khỏi hiện trường sau vụ tai nạn và khuya cùng ngày đã ra đầu thú với cơ quan chức năng.

Theo Ls Nguyễn Thành Công (Giám đốc Cty Đông Phương Luật, Đoàn Ls TPHCM), vụ tai nạn giao thông (TNGT) này cực kỳ nghiêm trọng, hậu quả rất lớn nếu xét theo quy định pháp luật hình sự hiện hành thì đã ở mức phạm tội cao nhất, tức hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu hình sự ở mức cao nhất của khung hình phạt mà tội danh này quy định. Theo đó vi phạm này được quy định tại điều 260 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 với khung hình phạt cao nhất đến 15 năm tù.

Ls Nguyễn Thành Công cũng cho rằng, khi điều tra mà có kết luận tài xế Phạm Thành Hiếu dương tính với ma túy và có nồng độ cồn trong máu thì đây là tình tiết thể hiện rõ về hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ dẫn đến gây thiệt hại về người và tài sản. Để xác định trách nhiệm pháp lý của người lái xe trong trường hợp này cần phải xem xét các vấn đề về tình trạng sức khỏe ra sao vào thời điểm trước và trong khi lái xe kia. Khi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông đường bộ mà trong cơ thể có nồng độ cồn đã là hành vi vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Nồng độ cồn càng cao thì chế tài phải chịu càng tăng.

Tài xế gây tai nạn kinh hoàng ở Long An chịu hình phạt nào? - ảnh 1

Ls Nguyễn Thành Công cho rằng tài xế có thể bị phạt tới 15 năm tù.

Ngoài ra Ls Công cũng phân tích rằng, phải xác định việc tài xế đã lách khỏi 1 xe tải khác để chuyển làn sau đó là xe lướt về phía trước khi gần tới vạch dừng đèn giao thông là hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật giao thông đường bộ dù tốc độ lưu thông của xe là không vượt quy định. Bởi vì lúc này, đoàn xe máy dừng đèn đỏ đã tồn tại nên làn đường đã không còn an toàn để xe cont chuyển làn. Việc gây ra tai nạn trường hợp này sẽ bị xem xét về mức độ nghiêm trọng của hành vi.

“Bên cạnh đó, một vấn đề rất quan trọng là việc xác định tình trạng vận hành của xe có đảm bảo kỹ thuật thông qua việc xem xét thời gian kiểm định của xe ở thời điểm gần nhất cũng như xác định chủ sở hữu của xe. Nếu chủ sở hữu xe hoặc người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật xe giao cho người tài xế chiếc xe không đảm bảo an toàn khi lưu thông thì có khả năng bị truy cứu trách nhiệm pháp lý về hành vi “Đưa vào sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ không đảm bảo an toàn” quy định tại Điều 262 Bộ LHS với khu hình phạt cao nhất lên đến 10 năm tù. Vì thiệt hại về tài sản là rất lớn nên xác định giá trị thiệt hại thành tiền để áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng cũng là vấn đề trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự của tài xế”.

Dẫn giải quy định tại khoản 3, Điều 260 Bộ LHS, Ls Nguyễn Thành Công cho rằng làm chết đến 3 người hoặc gây thiệt hại cho 3 người trở lên mà tổng thương tích của những người này từ 201% trở lên hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 1,5 tỷ đồng trở lên thì đều bị chế tài ở khung hình phạt cao nhất của tội danh là mức 15 năm tù. Đồng thời giá trị xác định cũng là 1 phần trong việc áp mức trách nhiệm bồi thường dân sự cho các nạn nhân bên cạnh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Nếu tài xế là người lái xe thuê thì Chủ sở hữu xe phải có trách nhiệm đền bù trước các thiệt hại dân sự này rồi sau đó có thể đòi lại phần vật chất này từ tài xế.

Tài xế gây tai nạn kinh hoàng ở Long An chịu hình phạt nào? - ảnh 2
Ls Nguyễn Hữu Lộc (trái) trao đổi với PV Tiền Phong sáng nay. Ảnh: Tao Ngộ

Luật sư Nguyễn Hữu Lộc (Trưởng chi nhánh Vp Luật sư Tài Lộc Tây Ninh (Đoàn Luật sư TPHCM) cho hay: Tin từ Tiền Phong cho thấy sau khi gây tai nạn tài xế đã rời khỏi hiện trường. Vậy tài xế có bị xem là không chịu cứu giúp người hay không hay là có hành vi trốn tránh nghĩa vụ cứu giúp người hay khắc phục hậu quả hay không? Ở đây cần phải xem xét đến hoàn cảnh tại hiện trường cũng như tinh thần của tài xế sau khi gây ra tai nạn có bị ảnh hưởng đến tinh thần của tài xế hay không, chẳng hạn như: Sau khi gây tai nạn tinh thần của tài xế bị hoảng hoạn; bị khủng hoảng tinh thần? Nếu có như vậy, thì việc tài xế rời khỏi hiện trường không được xem là hành vi trốn tránh trách nhiệm; không ở lại cứu giúp người bị tai nạn.

Và cũng theo thông tin từ Tiền Phong thì: Sau khi gây tai nạn thì tài xế đã đến Cơ quan công an trình diện và trình bày vụ việc mình đã gây ra tai nạn trên. Mặc dù, tai nạn xảy ra có người biết, nhưng khi đó là chưa có ai biết chính xác ai là người gây ra tai nạn, nên việc tài xế tự nguyện đến Cơ quan công an để trình báo được xem là tình tiết đầu thú theo quy định của pháp luật, quy định về tình tiết giảm nhẹ sau này.

Đồng tình với Ls Nguyễn Thành Công. Ls Nguyễn Hữu Lộc nói rằng, theo như thông tin của Tiền Phong nêu, thì với hậu quả trên tài xế sẽ bị truy tố ở khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm (điều 260 BLHS 2017); do có số người chết từ 03 người trở lên và nhiều người khác bị thương và thiệt hại vật chất là có xảy ra.

Theo TPO

“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

5. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.


Bình luận

Tin cùng chuyên mục